Vảy nến thông thường là gì? Các công bố khoa học về Vảy nến thông thường

Vảy nến thông thường là các hình thức vảy trên thân nến mà ai cũng có thể tạo ra chỉ bằng tay và không cần kỹ thuật đặc biệt. Có nhiều loại vảy nến thông thường...

Vảy nến thông thường là các hình thức vảy trên thân nến mà ai cũng có thể tạo ra chỉ bằng tay và không cần kỹ thuật đặc biệt. Có nhiều loại vảy nến thông thường như vảy thẳng, vảy xoắn, vảy tam giác, vảy hình xuyên tâm, vảy hình sao, vảy hình trái tim, vảy hình sứ, vảy hình số 8, vảy hình ngôi sao, vảy hình bông hoa, và nhiều loại khác nữa. Cách tạo vảy này thường được áp dụng để tăng tính thẩm mỹ và tạo điểm nhấn cho nến, đồng thời tạo ra hiệu ứng mỹ quan khi nến cháy.
Các loại vảy nến thông thường có thể được tạo ra theo các bước sau:

1. Vảy thẳng: Đây là loại vảy đơn giản nhất và dễ tạo ra. Bạn chỉ cần sử dụng kéo hoặc dao cắt để tạo ra các vết cắt thẳng trên thân nến. Các vết cắt có thể cách đều nhau hoặc không để tạo ra hiệu ứng độc đáo.

2. Vảy xoắn: Đây là loại vảy mà thân nến được cắt với các vết cắt xoắn quanh thân. Để tạo ra vảy này, bạn có thể sử dụng dao cắt và quay thân nến theo chiều xung quanh, tạo ra các vết cắt xoắn hoặc sử dụng cách khác để tạo lên hiệu ứng xoắn.

3. Vảy tam giác: Loại vảy này được tạo ra bằng cách tạo ra các vết cắt hình tam giác trên thân nến. Bạn có thể sử dụng dao cắt hoặc kéo để tạo ra các vết cắt tam giác được đặt cạnh nhau hoặc xếp chồng lên nhau.

4. Vảy hình xuyên tâm: Đây là loại vảy mà các vết cắt được tạo thành như các đường kẻ xuyên tâm của các vòng tròn trên thân nến. Bạn có thể sử dụng dao cắt hoặc kéo để tạo ra các vết cắt hình tròn giống như một mắt xích.

5. Vảy hình sao: Đây là loại vảy mà các vết cắt được tạo thành như các cánh của một ngôi sao. Bạn có thể sử dụng dao cắt hoặc phụ kiện khác có hình dạng giống cánh sao để tạo ra các vết cắt tạo hình sao lên thân nến.

6. Vảy hình trái tim: Loại vảy này có các vết cắt hình trái tim trên thân nến. Bạn có thể sử dụng dao cắt hoặc khuôn hình trái tim để tạo ra các vết cắt.

Đây chỉ là một số ví dụ về các loại vảy nến thông thường. Bạn có thể sáng tạo và kết hợp các cách tạo vảy này để tạo ra những hiệu ứng đẹp và độc đáo trên thân nến.
Tạo vảy nến thông thường có thể thực hiện theo các bước cụ thể sau:

1. Chuẩn bị:
- Một cây nến thành phẩm và đã đóng gói hoặc tự làm từ sáp nến.
- Kéo hoặc dao cắt (có thể là kéo cắt chỉ hoặc dao kéo).
- Bảng cắt nến hoặc bề mặt phẳng để sử dụng khi cắt.
- Đèn hoặc ngọn lửa để làm nóng lưỡi cắt (tuỳ chọn).

2. Chọn kiểu vảy và định hình:
- Xác định loại vảy nến mà bạn muốn tạo, chẳng hạn như vảy thẳng, vảy xoắn, vảy tam giác, vảy hình sao, vảy hình trái tim, v.v.
- Vẽ hoặc nhãn dấu các hình dạng hoặc mô hình lên thân nến (tuỳ chọn). Điều này giúp bạn điều chỉnh và hướng dẫn khi cắt.

3. Cắt và tạo vảy:
- Đặt nến trên bề mặt cắt nến hoặc một tấm phẳng. Nếu nến không ổn định, bạn có thể giữ nó chặt bằng tay không cắt.
- Sử dụng kéo hoặc dao cắt để cắt nến theo các đường cắt đã được xác định. Lưu ý rằng dao kéo có thể tạo ra các đường cắt độc đáo hơn và khó hơn so với kéo cắt chỉ.
- Đối với các vảy thẳng, chỉ cần cắt hàng ngang hoặc dọc theo thân nến theo độ dày và khoảng cách bạn mong muốn.
- Đối với vảy xoắn, xoay nến và cắt cắt theo từng vòng quanh thân nến. Bạn có thể xoay chậm để có các vải tăm xoắn dài hoặc xoay nhanh để tạo ra các vết cắt ngắn hơn.
- Đối với các mẫu vảy khác nhau, sử dụng kỹ thuật cắt phù hợp để tạo ra các hình dạng mong muốn. Bạn có thể sử dụng khuôn hình, mô hình hoặc cắt tự do để tạo ra các loại hình vảy đặc biệt.

4. Hoàn thiện:
- Kiểm tra nến đã cắt đúng theo ý muốn.
- Nếu cần, dùng ngón tay để chỉnh sửa hình dạng vảy nến đã cắt.
- Đun lưỡi cắt bằng lửa hoặc đèn để làm nóng và cạo bỏ những cặp sáp dính lại với nhau nếu cần thiết.

Lưu ý rằng quá trình tạo vảy cần sự cẩn thận và kỹ năng để tránh làm hỏng nến hoặc thương tổn cá nhân. Hãy luôn chú ý an toàn và làm việc trong một môi trường thích hợp.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "vảy nến thông thường":

Mức độ cải thiện chất lượng cuộc sống ở bệnh nhân vảy nến điều trị bằng thuốc sinh học so với điều trị bằng các phương pháp thông thường tại Bệnh viện Da liễu Thành phố Hồ Chí Minh
Mục tiêu: So sánh mức độ cải thiện chất lượng cuộc sống ở bệnh nhân vảy nến điều trị bằng thuốc sinh học với bệnh nhân điều trị bằng các phương pháp thông thường khác. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang có phân tích, so sánh mức độ cải thiện ở hai nhóm. Nhóm 1 có 31 bệnh nhân sử dụng thuốc sinh học bao gồm secukinumab và ustekinumab. Nhóm 2 có 31 bệnh nhân được điều trị bằng các thuốc thoa hoặc thuốc uống cổ điển. Theo dõi chỉ số chất lượng cuộc sống ở 2 nhóm tại 3 thời điểm: Đánh giá ban đầu, sau 1 tháng và sau 3 tháng điều trị. Sử dụng bảng đánh giá chất lượng cuộc sống (DLQI) gồm 10 câu hỏi đánh giá ảnh hưởng đến các vấn đề sức khỏe thể chất, công việc, sinh hoạt từ mức độ không ảnh hưởng đến ảnh hưởng rất nhiều (từ 0 - 3 điểm cho mỗi câu hỏi) được chuẩn hóa tiếng Việt. Kết quả: Nhóm 1 và nhóm 2 có tuổi, giới, nghề nghiệp, tuổi khởi phát, BMI tương đồng nhau. Chỉ số PASI nhóm 1 là 27,19 ± 9,54 cao hơn nhóm 2 (16,42 ± 7,76), khác biệt này có ý nghĩa thống kê. Tại thời điểm T1 và T3 chỉ số PASI ở nhóm 1 cải thiện đáng kể so với nhóm 2 và sự khác biệt ở hai nhóm đều có ý nghĩa thống kê. Mối tương quan giữa DLQI và PASI ở nhóm 1 có ý nghĩa thống kê tại T0 (p=0,02) và T3 (p<0,0001). DLQI ở T0 của nhóm 1 (20,65 ± 6,41) cao hơn nhóm 2 (9,55 ± 6,45) (p<0,001). Tại T1 và T3, nhóm 2 có chỉ số DLQI gần như không thay đổi, trong khi đó DLQI nhóm 1 giảm nhiều, lần lượt là 9,48 ± 4,22, 3,97 ± 3,23 và khác biệt này có ý nghĩa thống kê. Kết luận: Nghiên cứu cho thấy bệnh nhân vảy nến được điều trị bằng thuốc sinh học cải thiện chất lượng cuộc sống nhiều hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm bệnh nhân được điều trị bằng các phương pháp thông thường khác. Từ khóa: Vảy nến, thuốc sinh học, chất lượng cuộc sống.  
#Vảy nến #thuốc sinh học #chất lượng cuộc sống
Nghiên cứu sự thay đổi nồng độ một số cytokin trước và sau điều trị bệnh vảy nến thông thường bằng chiếu UVB-311nm kết hợp uống methotrexate liều thấp
Tóm tắt Mục tiêu: Xác định sự thay đổi nồng độ các cytokin IL-2, IL-4, IL-6, IL-8, IL-10, IL-17, INF-g, TNF-α và GM-CSF của bệnh nhân vảy nến thông thường trước và sau điều trị bằng chiếu UVB-311nm kết hợp uống methotrexate liều thấp (7,5mg/tuần). Đối tượng và phương pháp: 35 bệnh nhân vảy nến thông thường điều trị nội trú tại Bộ môn - Khoa Da liễu - Dị ứng, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 từ 5/2015-5/2018 được định lượng nồng độ các cytokine IL-2, IL-4, IL-6, IL-8, IL-10, IL-17, INF-g, TNF- α và GM-CSF trong huyết thanh trước và sau điều trị bằng chiếu UVB-311nm kết hợp uống methotrexate liều thấp. Kết quả: Nồng độ các cytokine IL-2, IL-4, IL-8, IL-10, IL-17, INF-g, TNF- α và GM-CSF trước và sau điều trị thì sự thay đổi không có ý nghĩa thống kê, đều với p>0,05, nhưng IL-6 sau điều trị đã giảm rõ rệt, với p<0,001. Kết luận: Sau 4 tuần điều trị bệnh vảy nến thông thường bằng chiếu UVB-311nm kết hợp uống methotrexate liều thấp (7,5mg/tuần) thì nồng độ các IL-2, IL-4, IL-8, IL-10, IL-17, INF-g, TNF- α và GM-CSF huyết thanh chưa thay đổi, nhưng nồng độ IL-6 sau điều trị giảm rõ rệt. Từ khóa: Bệnh vảy nến thông thường, interleukin 2, 4, 6, 8, 10, 17, INF-g, TNF- α và GM-CSF.  
#Bệnh vảy nến thông thường #interleukin 2 #4 #6 #8 #10 #17 #INF-g #TNF- α và GM-CSF
NỒNG ĐỘ CRP, ALBUMIN VÀ GLOBULIN HUYẾT THANH VÀ MỐI LIÊN QUAN VỚI MỨC ĐỘ BỆNH VẢY NẾN THÔNG THƯỜNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 509 Số 1 - 2022
Mục tiêu: Xác định nồng độ CRP, albumin, globulin huyết thanh của bệnh nhân vảy nến thông thường (VNTT) và mối liên quan với mức độ bệnh. Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang; gồm 2 nhóm: Nhóm nghiên cứu 55 bệnh nhân nhómVNTT; 55 người khỏe mạnh ở nhóm đối chứng tại Bệnh viện Da liễu Trung ương. Kết quả: Nhóm nghiên cứu tăng  nồng độ CRP huyết thanh và tỷ lệ CRP/Albumin huyết thanh tăng cao hơn nhóm đối chứng (p<0,001) và có liên quan thuận với mức độ bệnh. Ngược lại, nồng độ albumin huyết thanh nhóm nghiên cứu (39.41 ± 3,74g/l) giảm so với nhóm đối chứng (42.21±2,46 g/l) với p <0,001 và có mối liên quan nghicchj với mức độ bệnh. Nồng độ globulin huyết thanh giữa nhóm VNTT (30.09 ± 3.19g/l) và nhóm đối chứng (29.11 ± 3.16g/l) là tương đương nhau (p>0,05). Kết luận: Có sự tăng nồng độ CRP và tỷ lệ CRP/Albumin huyết thanh, giảm nồng độ albumin huyết thanh bệnh nhân VNTT và sự thay đổi có liên quan với mức độ bệnh.
#nồng độ CRP #nồng độ albumin #tỷ lệ CRP/Albumin huyết thanh #nồng độ globulin #bệnh vảy nến thông thường
NGHIÊN CỨU SỰ THAY ĐỔI NỒNG ĐỘ MỘT SỐ CYTOKIN Ở BỆNH VẨY NẾN THÔNG THƯỜNG MỨC ĐỘ NẶNG TRƯỚC VÀ SAU ĐIỀU TRỊ BẰNG CYCLOSPORIN A
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 500 Số 2 - 2021
Mục tiêu: Xác định sự thay đổi nồng độ các cytokin IL-2, IL-6, IL-8, IL-10, IL-12, IL-17, INF-g, TNF-α của bệnh nhân vảy nến thông thường mức độ nặng trước và sau điều trị bằng Cyclosporin A. Đối tượng và phương pháp: 35 bệnh nhân vảy nến thông thường mức độ nặng điều trị ngoại  trú tại phòng khám chuyên đề bệnh vảy nến-bệnh viện Da liễu trung ương từ 10/2016-10/2019 được định lượng nồng độ các cytokine IL-2, IL-6, IL-8, IL-10, IL-12, IL-17, INF-g, TNF- α trong huyết thanh trước và sau điều trị bằng Cyclosporin A. Kết quả: Nồng độ các cytokine IL-2, IL-6, IL-8, IL-10, IL-12, IL-17, TNF- α  trước và sau điều trị thay đổi không có ý nghĩa thống kê, với p>0,05, tuy nhiên nồng độ INF-g huyết thanh sau điều trị đã giảm có ý nghĩa thống kê, với p<0,05. Kết luận: Sau 10 tuần điều trị bệnh vảy nến thông thường mức độ nặng bằng uống Cyclosporin A liều 2,5 – 3mg/kg/ngày thì nồng độ một số cytokine IL-2, IL-6, IL-8, IL-10, IL-12, IL-17, TNF- α huyết thanh chưa thay đổi. Tuy nhiên nồng độ INF-g sau điều trị giảm rõ rệt.
#Bệnh vảy nến thông thường mức độ nặng #interleukin 2 #6 #8 #10 #12 #17 #INF- #TNF- α.
Yếu tố liên quan và đặc điểm lâm sàng của bệnh nhân vảy nến thông thường đến khám tại Bệnh viện Da liễu Thành phố Hồ Chí Minh
Mục tiêu: Khảo sát một số yếu tố liên quan và đặc điểm lâm sàng của bệnh nhân vảy nến thông thường đến khám tại Bệnh viện Da liễu Thành phố Hồ Chí Minh. Đối tượng và phương pháp: Mô tả cắt ngang trên 150 bệnh nhân vảy nến thông thường đến khám tại Bệnh viện Da Liễu Thành phố Hồ Chí Minh từ tháng 8/2017 đến tháng 4/2020. Kết quả: Tuổi trung bình của bệnh nhân vảy nến là 48,03 ± 14,13 (năm), trong đó nhóm tuổi 40 - 59 chiếm tỷ lệ cao nhất 45,34%; tỷ lệ nam và nữ tương đương nhau; stress chiếm đến 44%, uống rượu bia 22,67%, hút thuốc lá 22,67%, nhiễm khuẩn 16%, hút thuốc lá 8,67%, Koebner 8,67% và thời gian bị bệnh dưới 5 năm 63,33%. Tổn thương đối xứng chiếm 90%; tổn thương móng là 89,33%, da đầu là 85,33%, nếp gấp 20%; mức độ nặng 45,34%, vừa 37,33% và nhẹ 17,33%. Có mối liên quan giữa PASI với thời gian bị bệnh, tổn thương móng, tổn thương da đầu. Kết luận: Tuổi bị bệnh vảy nến hay gặp là tuổi lao động sản xuất (20 - 59), chịu tác động của nhiều yếu tố như stress, uống rượu bia... Ngoài tổn thương da vùng đặc trưng còn gây tổn thương móng, nếp gấp, da đầu và có mối liên quan giữa PASI với thời gian bị bệnh, tổn thương móng, da đầu.
#Vảy nến thông thường #đặc điểm lâm sàng #yếu tố liên quan
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG VÀ HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ BỆNH NHÂN VẢY NẾN THÔNG THƯỜNG BẰNG CHIẾU TIA CỰC TÍM B DẢI HẸP (NBUVB)
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 526 Số 1A - 2023
Mục tiêu: Mô tả triệu chứng lâm sàng và đánh giá kết quả điều trị bệnh vảy nến thông thường thể mảng bằng tia cực tím B dải hẹp. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu 40 bệnh nhân vảy nến thông thường được điều trị bằng tia cực tím B dải hẹp tại bệnh viện da liễu trung ương từ tháng 6/2018 đến tháng 7/2019. Kết quả: 27 bệnh nhân nam chiếm tỷ lệ 67.5%, 13 bệnh nhân nữ chiếm tỷ lệ 31,5%. Vị trí tổn thương hay gặp nhất là ở thân mình chiếm 100%, trên đầu chiếm 92,5%. Mức độ bệnh của nhóm đối tượng nghiên cứu chủ yếu ở mức độ trung bình chiếm 82.5%, tuýp da IV 77,5%. Bệnh gặp ở bất cứ ngành nghề nào. Sau 16 lần chiếu có 7.5% bệnh nhân đạt PASI 75. không có bệnh nhân nào có tác dụng phụ nghiêm trọng trong suốt quá trình chiếu tia. Kết luận: điều trị vảy nến thể mảng thông thường bằng tia cực tím B dải hẹp có hiệu quả điều trị cao, an toàn.
#Bệnh vảy nến #Tia cực tím B dải hẹp #Hiệu quả điều trị.
Nghiên cứu một số yếu tố liên quan và đặc điểm lâm sàng bệnh vảy nến thông thường khám và điều trị tại Bệnh viện Da liễu Trung ương từ tháng 01/2018 đến tháng 12/2018
Mục tiêu: Khảo sát một số đặc điểm lâm sàng và các yếu tố liên quan đến bệnh vảy nến thông thường. Đối tượng và phương pháp: Tiến cứu, mô tả cắt ngang. 130 bệnh nhân khám tại Phòng khám Chuyên đề vảy nến - Bệnh viện Da liễu Trung ương được chẩn đoán xác định bệnh vảy nến thông thường. Kết quả và kết luận: Một số yếu tố liên quan: Tuổi đời hay gặp nhất từ 50 - 59 tuổi chiếm 25,38%, tuổi từ 40 - 69 tuổi chiếm 59,99%. Nam giới chiếm 66,15%. Stress gặp 38,46%, vảy nến xuất hiện tháng 10 - 12 là chủ yếu chiếm 58,46%, tiền sử gia đình gặp (16/130) 12,32%, bệnh kết hợp gặp nhiều nhất rối loạn chuyển hóa lipid chiếm 16,92%, tăng huyết áp chiếm 16,92%, đái tháo đường 9,23%. Vị trí tổn thương khởi phát vùng đầu chiếm 72,31%, vị trí tổn thương hiện tại vùng thân mình cao nhất 91,54%, mức độ nhẹ chiếm 53,08%, nặng chiếm 36,15% và vừa chiếm 10,77%.   Từ khóa: Bệnh vảy nến thông thường, yếu tố liên quan, đặc điểm lâm sàng.
#Bệnh vảy nến thông thường #yếu tố liên quan #đặc điểm lâm sàng
Mối liên quan giữa đa hình đơn gen IL-17F RS763780, IL-17RA RS4819554 VÀ HLA-CW6 trên bệnh vảy nến thông thường ở Việt Nam
Vảy nến là bệnh viêm mạn tính, yếu tố di truyền đóng góp 30% trong cơ chế bệnh sinh, vì vậy xác định các dấu ấn sinh học giúp dự đoán đáp ứng điều trị và tiên lượng. Nghiên cứu khảo sát đặc điểm lâm sàng bệnh nhân vảy nến thể mảng, tỉ lệ và kiểu gen IL-17F RS763780, IL17RA rs4819554 và HLA-Cw6 ở người Việt Nam. 121 bệnh nhân vảy nến được lấy mẫu máu ngoại vi, sau đó tách chiết DNA và giải trình tự gen bằng phần mềm CLC Main Workbench v5.5. Độ nặng trung bình 20,31 ± 12,70 và PASI là 14,88 ± 7,59.  Kết quả cho thấy có sự phân bố các genotype khác nhau trên mỗi vị trí khác nhau. Gen IL-17F đoạn rs763780 có tỉ lệ AA cao nhất trên nhóm bệnh nhân vảy nến chiếm 58,7%, GA chiếm 38,0%. Gen IL-17RA đoạn rs4819554 genotype GA có tỉ lệ là 53,7% và AA là 27,3%. Nhóm bệnh có tỉ lệ HLA-Cw6 âm tính và 35,04% và dương tính là 64,96%. Những bệnh nhân dương tính với HLA-Cw6, tỷ lệ dị hợp tử chiếm 77,63% và đồng hợp tử chiếm 22,37%. Chưa phát hiện mối liên quan giữa HLA-Cw6 với các SNP IL-17F RS763780 và IL17RA rs4819554. Tuy nhiên, có mối liên quan giữa IL-17F RS763780 lại có mối liên quan với độ nặng của bệnh.  
#Đa hình đơn nucleotides #IL17RA #rs4819554 #RS763780 #HLA-Cw6 #vảy nến
Nghiên cứu số lượng T-CD4, T-CD8 trong máu bệnh nhân vảy nến thông thường được điều trị bằng NB-UVB kết hợp methotrexate liều thấp
Mục tiêu: Đánh giá sự thay đổi số lượng T-CD4, T-CD8 trong máu bệnh nhân vảy nến thông thường trước và sau điều trị bằng chiếu NB-UVB kết hợp uống methotrexate liều thấp tại Bộ môn - Khoa Da liễu dị ứng, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 từ tháng 5/2015 đến tháng 5/2018. Đối tượng và phương pháp: 35 bệnh nhân vảy nến thông thường được uống 7,5mg methotrexate/tuần kết hợp chiếu UVB-31nm 5 lần/tuần (nghỉ thứ 7, chủ nhật) trong 4 tuần. Kết quả: Trước và sau điều trị, số lượng tế bào T-CD4 là: 682,34 ± 311,18 và 511,37 ± 217,33 (TB/ µl) với p<0,01 và T-CD8 là 613,09 ± 417,12 và 419,71 ± 194,58 (TB/ µl) với p<0,01. Không có mối liên quan giữa số lượng tế bào T-CD4 và T-CD8 với mức độ bệnh, nhưng số lượng tế bào T-CD4, T-CD8 ở mức độ vừa và nặng sau điều trị đều giảm có ý nghĩa thống kê. Kết luận: Số lượng T-CD4 và T-CD8 sau điều trị bằng methotrexate kết hợp UVB-311nm đều giảm rõ so với trước điều trị và không có mối liên quan với mức độ bệnh.  
#Bệnh vảy nến thông thường #T-CD4 #T-CD8 #methotrexate #UVB-31nm
PHÂN TÍCH MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁC XÉT NGHIỆM LÂM SÀNG TRONG CHẨN ĐOÁN VÀ SỬ DỤNG THUỐC SINH HỌC MỚI ĐỂ ĐIỀU TRỊ BỆNH VẨY NẾN THÔNG THƯỜNG TẠI BỆNH VIỆN DA LIỄU TRUNG ƯƠNG
Nghiên cứu phân tích mối liên quan giữa xét nghiệm cận lâm sàng trong chẩn đoán và lựa chọn sử dụng thuốc mới sinh học để điều trị bệnh vảy nến thông thường tại bệnh viện Da liễu Trung ương. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng: Xác định và phân tích các xét nghiệm men gan, chức năng thận và triglycerid máu đóng một vai trò quan trọng trong việc theo dõi, phát hiện và ngừng sử dụng hoặc đổi thuốc hệ thống truyền thống. Xét nghiệm tổng phân tích máu và hóa sinh máu cung cấp thông tin quan trọng để lựa chọn thuốc và đánh giá về tình trạng trước khi điều trị. Xét nghiệm sàng lọc lao, viêm gan B, viêm gan C và HIV được thực hiện đẩy đủ trước khi dùng thuốc sinh học. Kết quả xét nghiệm máu đã phản ánh được 50% - 100% hiệu quả điều trị, đồng thời cũng là căn cứ để tiến hành thay đổi hướng điều trị mới bằng thuốc sinh học. Xét nghiệm QuantiFERON-TB ở các nhóm có kết quả âm tính là căn cứ để không cần điều trị lao trước khi dùng thuốc sinh học. Tỷ lệ xét nghiệm có số lượng bạch cầu trung tính, lympho và mono giữa nhóm bệnh nhân dùng Secukinumab và 2 nhóm khác, có sự khác biệt có ý nghĩa (p<0,05). Kết quả này cũng là cơ sở để ưu tiên sử dụng Secukinumab khi bệnh nhân có những bất thường huyết học. Hơn nữa, khi xác định được bệnh nhân vẩy nến thông thường có men gan cao so với nhóm chung (p<0,05) sẽ lựa chọn điều trị thuốc sinh học nhưng không nên sử dụng Adalimumab.
#Bệnh vẩy nến thông thường #Thuốc sinh học #Xét nghiệm cận lâm sàng
Tổng số: 18   
  • 1
  • 2